Nhân cách là gì? Các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách con người? Phân tích về nhân cách con người. Các yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách theo Tâm lý học?

Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ. Nhân cách là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng mối quan hệ giữa con người với con người từ những chuyện bình thường, mối quan hệ gia đình, kết giao đến mối quan hệ xã hội, cộng tác, kinh doanh. Nhân cách thể hiện qua cách ứng xử của con người đối với người khác cũng như đối với sự việc trong cuộc sống của con người.

Đang xem: Bệnh đa nhân cách là gì? nguyên nhân, triệu chứng và cách chữa chuẩn

Không thể nhìn bề ngoài để đánh giá nhân cách con người. Nhân cách là phẩm chất bên trong, vô hình, nhưng được thể hiện qua tính chính trực và các kỹ năng sống của con người. Người có nhân cách tốt dễ thu nhận được cảm tình, lòng tin, sự tôn trọng và hợp tác của người khác, vì vậy họ có nhiều bạn đồng hành tốt trong cuộc đời. Ngược lại, người thiếu nhân cách là người thiếu những kĩ năng sống thiết yếu, dễ gặp thất bại.

Có thể nói, nhân cách đóng vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc đời của một con người. Chính vì thế nên em xin chọn đề tài: “Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành, phát triển của nhân cách. Liên hệ thực tiễn. ” để có cái nhìn rõ ràng và sâu sắc hơn về nhân cách của con người, đồng thời qua đó định hướng được cho mình một hướng đi đúng trong việc rèn luyện nhân cách cá nhân.

NỘI DUNG

Mục lục bài viết

2 2. Các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách:

1. Nhân cách con người là gì?

Nhân cách là khái niệm chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân, đó là một con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định; là chủ thể của các quan hệ người – người, của hoạt động có ý thức và giao lưu. Hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lí. Đó là thuyết phân tâm của S.Frued, thuyết siêu phẳng và bù trừ của A.Adler…

Các nhà tâm lí học theo quan điểm của Mác –xít đều cho rằng khái niệm nhân cách phải là một phạm trù xã hội chứ không thể thuần tâm lí. Tuy nhiên điều đó không loại trừ việc mỗi ngành khoa học tiếp cận vấn đề nhân cách theo góc độ của mình, trong số đó có khoa học tâm lí. Rõ ràng là một người sẽ chỉ trờ thành nhân cách kho đã có tâm lí và ý thức. Sau đây là một số định nghĩa về nhân cách của những nhà tâm lí theo quan điểm Mác – xít được sử dụng rộng rãi:

“Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò nhất định.” – A.G.Goovaliôp

“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí đang quy định những hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa xã hội” – E.V.Sôrôkhôva

Mặc dù có các định nghĩa khác nhau như trên nhưng các nhà tâm lí học Mác – xít đề thống nhất với nhau ở quan điểm: “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.”

Nói thuộc tính tâm lý là nói hiện tượng tâm lý tương đối ổn định – kể cả phần sống động và phần tiềm tàng (nét, thói, tính tình,,,) có tính quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên.

Dùng chữ “tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Cũng một thuộc tính đó, nằm trong thuộc tính khác cũng trở nên khác đi.

Nói “bản sắc” là muốn nói trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó có cái chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con người nhưng cái chung này (gọi tắt là kinh nghiệm – xã hội – lịch sử) đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người có đặc điểm về nội dung và cả về hình thức, không giống với các tổ hợp khác của bât cứ một người nào khác.

Dùng chữ “giá trị xã hội” là muốn nói những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy và được xã hội đánh giá.

2. Các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách:

Cuộc sống thực của mỗi con người diễn ra vô cùng sinh động, đa dạng, phong phú và phức tạp. Do đó, nhân cách của mỗi người được hình thành dưới sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, nhân cách của bất kì ai cũng được hình thành và phát triển dưới sự tác động của các yếu tố: (1) Di truyền bẩm sinh, (2) Hoàn cảnh sống ( Hay có thể hiểu là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội), (3) Nhân tố giáo dục, (4) Nhân tố hoạt động, (5) Yếu tố giao tiếp.

2.1. Nhân tố di truyền bẩm sinh:

Trong khoa học, nói tới yếu tố di truyền là nói tới đặc điểm nổi bật trong cấu tạo sinh học của cơ thể sinh vật. Đó là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những đặc điểm, thuộc tính giống như mình do một hay nhiều gen bằng con đường sinh học trực tiếp. Bằng con đường di truyền thệ hệ trước để lại trong cấu tạo cơ thể của thế hệ sau một “vốn liếng” tối thiểu giúp nó có thể tương tác với môi trường một cách vô thức ngay từ khi ra đời theo hướng có lợi cho sự tồn tại của nó (nhờ di truyền, con vịt biết bơi ngay từ khi nở ra từ trứng, tránh được nguy hiểm dưới nước; gà con biết ẩn nấp dưới bụng mẹ mỗi khi nghe thất tín hiệu báo nguy hiểm từ tiếng kêu của gà mẹ; đứa trẻ có được những hành động tự phát thích hợp với những tác động đến từ môi trường…).

Có thể nói, bẩm sinh – di truyền đóng cai trò đáng kể trong sự hình thành phát triển tâm lý nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý – những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Từ đó, có thể khẳng định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Chúng ta có thể thấy trong thực tế, có nhiều ví dụ về yếu tố di truyền ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Chẳng hạn như, thiên tài âm nhạc Mozart, ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình tràn đầy chất âm nhạc. Cùng với sự chăm lo dạy dỗ của người cha mà khi lên 3 tuổi, Mozart đã nghe được nhạc, và khi lên 4 ông đã đánh được đàn dương cầm và organ, bắt đầu soạn nhạc cho đàn phím khi 5 tuổi, viết bản nhạc hòa tấu lúc 8 tuổi. Chính kích thích từ người cha và chị gái cùng niềm say mệ hứng thú với âm nhạc từ thuở nhỏ đã tạo nên một thiên tài âm nhạc như Mozart. Qua đây, ta càng có thể khẳng định ảnh hưởng của di truyền bẩm sinh trong việc hình thành và phát triển nhân cách.

2.2. Hoàn cảnh sống:

Hoàn cảnh tự nhiên

Nhân cách như một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất, tinh thần, phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương thức sống của chính bản thân nó. Một số nhà tâm lý học hiện đại cho rằng, hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định trong sự phát triển tâm lý nhân cách. Cá nhân em đồng tình với quan điểm ngược lại có nghĩa là, hoàn cảnh tự nhiên cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người.

Mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định sẽ có cái độc đáo của hoàn cảnh địa lý, như: ruộng đồng, khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh. Những điều kiện ấy quy định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính nghề nghiệp và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lý học dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống.

Có thể lấy một ví dụ để minh họa cho quan điểm trên như sau: Nhật Bản là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên và lại nằm trong vùng vành đai núi lửa của Thái Bình Dương nên thường phải chịu những thảm họa thiên nhiên hết sức nặng nề như: động đất, sóng thần… Tuy vậy nhưng người dân Nhật Bản có một cách sống luôn làm cả thế giới ngưỡng mộ, đó là một Nhật Bản luôn luôn nêu cao tinh thần tiết kiệm, tính kỉ luật, tinh thần lạc quan luôn tin vào tương lai và hướng về phía trước cùng với đó là sự đoàn kết của cả cộng đồng. Có lẽ chính trong hoàn cảnh đất nước đặc biệt như vậy đã hình thành nhân cách của người dân Nhật Bản.

Hoàn cảnh xã hội

Trước tiên ta cần khẳng định tâm lý nhân cách của con người chịu sự ảnh hưởng của xã hội. Nếu không có sự tiếp xúc với con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Nhân cách là một sản phẩm của xã hội, như thế có nghĩa là nếu muốn một đứa trẻ trở thành một nhân cách đồng nghĩa với việc phải cho nó tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại.

Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách, đồng thời tâm lý nhân cách cũng phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này hay mức độ khác trong vai trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lý tưởng phụ thuộc không ít vào vai trò đó. Chẳng hạn, nếu một người với địa vị là một nguyên thủ quốc gia thì người đó sẽ có những lý tưởng riêng của mình, đó chính là phục vụ quốc gia, không ngừng nỗ lực để với địa vị và quyền lực trong tay mình có thể thúc đầy sự phát triển của đất nước, bảo đảm được cuộc sống cho người dân của mình…

2.3. Nhân tố giáo dục:

Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục hiện đại thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu là quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Nhưng thực ra giáo dục còn có ý nghĩa rộng lớn hơn; giáo dục bao gồm cả việc dạy học cùng với hệ thống các tác động sư phạm khác, trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớp hoặc ngoài lớp, trong trường hoặc ngoài trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện ở những điểm sau:

Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó. (Ví dụ như: giáo dục hướng con người tuân thủ pháp luật và những chuẩn mực đạo đức của xã hội để hình thành nhân cách cho con người trở thành những người tốt, những công dân có ích cho cộng đồng.) Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tó bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đam lại được. (Chẳng hạn như: nếu đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển bình thường của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muốn biết đọc được sách báo thì nhất thiết đứa trẻ phải đi học.) Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người. (Ví dụ như: Bằng các phương pháp giáo dục đặc biệt có thể giúp những người khuyết tật phục hồi được chức năng đã mất hoặc có thể hạn chế ở mức tối đa những bất tiện mà do thiếu hụt của bệnh tật mang lại, đồng thời có thể phát triển tài năng và trí tuệ con người,như:người mù có thể đọc được sách nhờ bảng chữ nổi,…) Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội, (Chẳng hạn như: những phạm nhân hình sự phải chịu hình phạt tù hoặc cải tạo không giam giữ. Hình phạt mà pháp luật quy định cho họ nhằm mục đích giáo dục những người phạm tội) Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. (Chẳng hạn như chúng ta đang trên con đường xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đây chính là tính chất tiên tiến của giáo dục.) Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng, sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện của sự dạy học và giáo dục.

2.4. Nhân tố hoạt động:

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, với những công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình: đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan.

Khác với động vật, hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức. Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức. Hoạt động của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của con người với sự vật mà cả trong mối quan hệ giữa con người với con người.

Xem thêm: Trái dưa hấu giá sỉ – dưa hấu tiền giang giá sỉ từ 30kg

Ta có thể thấy rất rõ ảnh hưởng của hoạt động trong việc hình thành và phát triển nhân cách qua nhiều hoạt động thực tế. Ví dụ như những người thiếu hoạt động sẽ rất dễ dẫn đến việc bị suy nhược cơ thể. Đôi lúc quá chú trọng việc học tập mà quên đi những công việc hàng ngày như nấu cơm, giặt quần áo, quét dọn nhà cửa, thâm chí còn bỏ thỏi quen luyện tập thể thao của bản thân sẽ rất dễ gây nên tình trạng căng thẳng, hay chúng ta thường gọi là stress đối với học sinh, sinh viên, nhất là các bạn học sinh lớp 12 đang trong giai đoạn nước rút ôn thi tốt nghiệp và thi đại học. Các bạn thường hay bực bội với mọi người, tâm lí nhiều hơn với học tập, thậm chí muốn xa lánh mọi người, thường trong tình trạng bức bối, bí bách, muốn giải phóng mình và bị đè nặng bởi áp lực học tập và thi cử. Qua đây có thể thấy hoạt động cho ta giá trị khác nhau của nhân cách mà chúng ta cần phải biết tận dụng nó để nuôi dưỡng nhân cách của mình.

2.5. Yếu tố giao tiếp:

Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người, Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại. Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như là một nhân cách.

Nếu một người giao tiếp với những người có cách hành xử không đúng chuẩn mực đạo đức của xã hội như hay ăn nói tục tĩu, hay kiếm chuyện gây gổ thì dù ít hay nhiều cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những tính xấu này của họ. Còn nếu giao tiếp với những người có văn hóa, trong một môi trường lành mạnh con người đó có thể sống tốt hơn, biết đặt ra mục tiêu để cố gắng phấn đấu góp phần xây dựng cộng đồng chung tốt đẹp đó.

KẾT LUẬN

Tổng kết lại, ta có thể thấy sự hình thành và phát triển của nhân cách chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố cơ bản, đóng vai trò quan trọng như: yếu tố bẩm sinh – di truyền; yếu tố hoàn cảnh sống; nhân tố giáo dục; nhân tố hoạt động; và yếu tố giao tiếp.

Mỗi người cần nên biết những yếu tố cơ bản, quan trọng trên để từ đó có thể định hướng cho mình một con đường đúng đắn trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Chúng ta có thể tự tạo cho mình một môi trường lành mạnh, tạo môi trường sống từ gia đình, từ nơi học tập, làm việc… Bên cạnh đó, mỗi cá nhân cũng cần nuôi dưỡng cho mình một kho tàng tri thức, biết tiếp thu một cách chọn lọc những ảnh hưởng tốt cũng như sàng lọc, gạn lược đi những thói hư tật xấu, những hệ quả tiêu cực của xã hội hiện đại để ngày càng hoàn thiện hơn nhân cách của bản thân mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân

2. Bài giảng Tâm lý học đại cương phần 2, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Tâm lý học

3. Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Nguyễn Văn Lũy – Đinh Văn Vang, Nxb Đại học sư phạm.

Đa nhân cách trong y học thuộc phân nhóm bệnh thần kinh – não bộ, đây là tình trạng rối loạn hoặc mất kiểm soát nhân cách ở con người, đôi khi biến chất, thoái hóa nhân cách theo chiều hướng tiêu cực.

Bệnh đa nhân cách là gì?

Bệnh đa nhân cách (rối loạn nhân cách) là một chứng bệnh tâm lý ảnh hưởng đến hành vi và thái độ của người bệnh. Lúc này, bệnh nhân sẽ tồn tại nhiều hơn hai nhân cách. Trong đó có 1 nhân cách bình thường và các nhân cách về bệnh lý. Cụ thể:

Nhân cách bình thường: Thể hiện ở sự tuân thủ các chuẩn mực đạo đức của xã hội, các thể chế xã hội hiện hành.Nhân cách bệnh lý: Thể hiện ở cách sống, cách cư xử và những phản ứng hoàn toàn khác biệt với người bình thường.

Thông thường, khi một nhân cách nào đó đang ngự trị, người bệnh sẽ không nhớ được mình đã làm gì khi ở nhân cách cũ. Vì thế mà người ta nói bệnh đa nhân cách thường đi kèm với chứng mất trí nhớ. Người bệnh thường cho rằng mình đã đi ngủ trong khoảng thời gian đó. Mất ký ức, trí nhớ về những việc đã xảy ra trong quá khứ chính là một trong những đặc điểm chính của những người bị rối loạn nhân cách.

*

Rối loạn đa nhân cách nguy hiểm không?

Rối loạn đa nhân cách là một bệnh lý vô cùng nguy hiểm. Trước tiên, nó làm ảnh hưởng và xáo trộn cuộc sống, thói quen, hành vi của người bị bệnh. Sau đó, khi bị nhiều nhân cách chi phối, bệnh nhân có thể làm những việc gây hại cho bản thân và cho người khác.

Minh chứng rõ ràng nhất là trường hợp của hai tên tội phạm Kenneth Bianchi và Angelo Buono. Mắc chứng rối loạn đa nhân cách, hai tên sát nhân này đã thực hiện tổng cộng 10 vụ nội án tại Los Angeles chỉ trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1977 đến tháng Hai năm 1978.

Mức độ nguy hiểm của bệnh đa nhân cách còn tùy thuộc vào các nhóm nhỏ hành vi của nhân cách. Cụ thể, khi nhân cách bị rối loạn, sẽ được phân chia thành các nhóm hành vi:

Nhóm A: Bao gồm rối loạn nhân cách phân liệt, nhân cách thể phân lập, nhân cách hoang tưởng.Nhóm B: Bao gồm rối loạn nhân cách chống xã hội, nhân cách ái kỷ, nhân cách ranh giới.Nhóm C: Bao gồm rối loạn nhân cách tránh né, ám ảnh cưỡng chế, nhân cách phụ thuộc.

Nguyên nhân bệnh đa nhân cách

Y học chưa chỉ ra được nguyên nhân chắc chắn hình thành thành bệnh đa nhân cách. Tuy nhiên, có một số giả thuyết được đặt ra, bệnh xảy ra nhiều hơn ở những người:

Từng trải qua những tổn thương sâu sắc ở thời thơ ấu như bị ngược đãi, đánh đập, thiếu sự quan tâm của cha mẹ, không được chăm sóc, quan tâm,…Nguyên nhân bị đa nhân cách có thể do có vấn đề về thần kinh, não bộ: Chấn thương não, não thiếu chất serotonin.

Cũng có một số quan điểm chỉ ra: Thực tế, con người từ khi sinh ra đã mang trong mình rất nhiều những nhân cách khác nhau. Nếu như được nuôi dậy trong môi trường có đạo đức và lối sống chuẩn mực thì nhân cách tốt sẽ phát triển và vùi lấp các nhân cách xấu khác.

Tuy nhiên, chúng chỉ bị vùi lấp chứ không bị mất đi. Khi gặp một tác nhân nào đó, nhân cách kia sẽ trỗi dậy, bệnh đa nhân cách được hình thành.

Triệu chứng bệnh đa nhân cách

Trong thực tế, rất khó để chẩn đoán chính xác xem một người có mắc chứng rối loạn nhân cách hay không. Thông thường, để xác định, cần phải có sự can thiệp của các bác sĩ tâm lý. Phần lớn những bệnh nhân đa nhân cách sẽ xuất hiện những triệu chứng sau:

Tồn tại nhiều hơn 2 nhân cách: Những nhân cách thường có nhận thức và suy nghĩ khác biệt, thậm chí là đối lập nhau hoàn toàn về thế giới xung quanh và những chuyện xảy ra.Có những khoảng trống trong ký ức: Như đã đề cập ở trên, những người mắc bệnh đa nhân cách thường đi kèm với chứng mất trí nhớ. Bệnh nhân thậm chí còn có thể quên cả những thông tin cá nhân quan trọng của mình, các sự kiện diễn ra trong ngày, những việc mình đã làm.Sinh hoạt bất ổn: Khi mỗi nhân cách ngự trị, người bệnh sẽ có những lối sinh hoạt khác nhau. Ví dụ cụ thể là trường hợp của một phụ nữ tên Mary Kendall, nghiên cứu của các nhà thần kinh học đã chỉ ra, vào năm 1994, khi Marry 35 tuổi, cô mắc bệnh đa nhân cách. Nhân cách bình thường của cô sẽ đi ngủ vào buổi đêm. Nhưng có một nhân cách khác khiến cô thường xuyên lái xe đi dạo vào ban đêm khoảng 80-160km.Gặp các vấn đề về tâm lý như: Thay đổi cảm xúc liên tục, trầm cảm, lo lắng, hoảng hoạn hoặc mắc chứng ám ảnh, muốn tự tử, sinh ra các ảo giác về thị giác, thính giác, rối loạn giấc ngủ,…

*

Cách chữa rối loạn nhân cách hiệu quả nhất

Hiện nay, các chuyên gia tâm lý thường áp dụng các phương pháp sau để điều trị bệnh đa nhân cách.

Xem thêm: Bán Xe Máy Suzuki Gsx – Mua Bán Suzuki Gsx R750 Mới Và Cũ Giá Rẻ

Chữa bệnh đa nhân cách bằng liệu pháp phân tích tâm lý: Bác sĩ tâm lý sẽ hướng đến các nhân tố bên trong, giúp bệnh nhân hiểu rõ những cảm xúc của mình.Chữa bệnh đa nhân cách bằng liệu pháp nhận thức hành vi: Mục tiêu là hướng tới những khía cạnh đặc biệt như suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, thái độ, tình trạng rối loạn nhân cách của người bệnh. Để làm được điều này bác sĩ sẽ sử dụng các phương pháp nhận thức, tâm lý trị liệu, phân tích nhận thức, hành vi biện chứng của người bệnh.Chữa bệnh đa nhân cách bằng liệu pháp cộng đồng: Tham gia khóa điều trị cộng đồng trong thời gian vài tháng, bệnh nhân sẽ được khuyến khích chia sẻ về những cảm xúc, hành vi của họ. Đồng thời, đưa ra cảm nhận của họ về những hành vi của người khác.Sử dụng thuốc: Thực tế thì không có loại thuốc cụ thể nào được phê duyệt để điều trị bệnh đa nhân cách. Tuy nhiên, có một số thuốc được sử dụng nhằm mục đích cân bằng lại hormone và hóa chất trong não. Cụ thể:Thuốc chống trầm cảm, cải thiện tâm trạng chán nản, ngăn ngừa nguy cơ tự tử hay làm những điều gây hại cho bản thân.Thuốc an thần dùng trong trường hợp rối loạn nhân cách hoang tưởng và rối loạn nhân cách phân liệt.Thuốc chống lo âu, chống kích động.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *